Khu tưởng niệm hơn 2 triệu đồng bào chết vị nạn đói năm 1945 tại P. Vĩnh Tuy, Q. Ha Bà Trưng

Khu tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói năm 1945. Là di tích lịch sử đặc biệt, nơi tố cáo tội ác của phát xít Nhật, đế quốc Pháp, những kẻ gây nên thảm hoạ trên 2 triệu người Việt Nam chết vì đói vào năm 1944-1945, một sự kiện bi thảm nhất trong lịch sử dân tộc ta từ trước đến nay.

Khu tưởng niệm nạn đói năm 1945 thuộc địa phận tổ 69, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng. Tấm bia đá cổ hiện đang lưu giữ tại nhà bia, cạnh khu mộ của những người bị chết vì nạn đói năm 1945 (ngôi mộ thứ 2 ở khu vực này), thuộc tổ 50, bia có tiêu đề ”Hợp thành hợp thiện” nghĩa là “Hội họp thiện ở Hà Thành”, được dựng vào năm Bính Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ 18 (1806) cho biết, năm 1806 hội Họp Thiện đã mua khu đất này để xây dựng thành phúc trang Hợp Thiện.

Khu tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói năm 1945
Khu tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói năm 1945

Khu tưởng niệm do hội Hợp Thiện xây dựng năm 1951, để quy tập hài cốt của những người chết vì nạn đói năm 1945 ở rải rác quanh khu vực nghĩa trang Hợp Thiện và một số nơi trên đường phố Hà Nội.

Khu tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói năm 1945
Khu tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói năm 1945

Đã nhiều năm trôi qua cho đến nay, nhưng trong ký ức của người dân Việt Nam, nạn đói năm 1945 (nạn đói năm Ất Dậu) vẫn còn là một cơn ác mộng, một nỗi đau nhức nhối khó quên.

Trong bản tuyên ngôn độc lập đọc trước nhân dân ngày 2/9/1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ “Mùa thu năm 1940, Phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ Đồng Minh, thì bọn thức dân Pháp đầu hàng, đã mở cửa cho phát xít Nhật vào xâm lược. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn, kết quả cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”.

Chính sách phá lúa trồng đay, chính sách thu gom lương thực giao nộp cho quân xâm lược Nhật là nguyên nhân chính gây ra nạn đói khủng khiếp vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945. Khắp các tỉnh thành ở miền Bắc nước ta, nhiều người chết thảm nằm rải rác ở các miền quê, trên các vỉa hè ở Hà Nội.

Theo sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam”, Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furuta Moto viết: “Hà Nội suốt mấy dãy phố từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, có hàng mấy trăm ăn mày thất thểu kéo nhau đi ăn xin, trên bờ hè, trên đám cỏ, đâu đâu chúng ta cũng thấy những bó chiếu, bó lá ở trong văng vẳng ra những tiếng rên kêu đói khát não nùng”. Tình trạng này còn được ông Lê Văn Ngọ ghi lại trong cuốn sách Hà Nội khởi nghĩa như sau: “Trẻ con bị bỏ hoặc bố mẹ chết rồi, lê lết nhặt lá bánh, cỏ cây, rác rưởi nhét vào miệng. Người chết hẳn, người sắp chết nằm rải rác trong chợ, trong các ngõ, nằm gối đầu lên manh chiếu, nhặng xanh bâu đầy mặt. Tử khí nặng nề u uất, những chiếc xe bò kéo đi nhặt xác chết lẫn cả những người còn thoi thóp trên xe, đổ vôi bột vào. Người chưa chết hôm nay đi nhặt thuê xác người đã chết để lấy tiền mua một nắm cơm, bát cháo cầm hơi và chờ đến hôm sau người khác sẽ nhặt xác của mình. Mấy con chó đói mang về trong xóm những khúc chân tay của trẻ con bị chết đói, thật là rùng rợn và thê thảm”.

Người Việt Nam vốn coi trọng lễ nghi trong “quan, hôn, tang, lễ” nhưng đến khi chết đói khắp làng thì không có chiếu mà bó xác, chết quá nhiều không khiêng vác xuể, phải buộc dây thừng vào cổ kéo xác đi chôn. Đau xót và đồng cảm trước sự mất mát, tang thương của đồng loại, những người trong hội Họp Thiện đã thông qua báo chí để kê gọi người dân ở Hà Nội may mắn thoát khỏi nạn đói, gom góp ít nhiều, bó chiếu, dây buộc, an ủi tiễn đưa những người không may chết vì nạn đói.

Đến năm 1951, hội Họp Thiện đứng ra tổ chức việc di chuyển những hài cốt ở bờ Tây sông Kim Ngưu về vị trí của 2 ngôi mộ hiện nay. Lúc đầu đào hầm mộ ở khu đất mà nay thuộc địa phận tổ 50, mộ có chiều dài 10m, rộng 6m, ngăn thành 4 ô để đựng hài cốt. Nhưng di chuyển chưa được nửa số hài cốt thì hầm mộ này đã đầy, vì vậy lại phải đào thêm hầm mộ thứ 2 (hiện là ngôi mộ thuộc địa phận tổ 69), ngôi mộ này có chiều dài 12m, rộng 10m, sâu 4m, cũng ngăn chia thành 4 ô để xếp những hài cốt thành từng lớp ngăn nắp. Sau khi đã di chuyển hết hài cốt, cho đổ một lớp bê tông phẳng để làm nắp đậy, đồng thời cho xây một bức biểu tượng trang trí làm bia tưởng niệm mà hiện nay chúng ta vẫn thấy nó ở ngôi mộ ở tổ 69 (tức là khu tưởng niệm hiện nay).

Khu tưởng niệm nạn đói năm 1945 được xây dựng trên một vùng đất co diện tích 141m2, ở giữa là ngôi mộ, phần nắp mộ xây một bức tường, chiều cao 4,2m, chiều dài 6,25m, dày 0,25m, phía trên tạo mái lợp ngói ống, đường riềm được trang trí hình văn triện, trên đó khắc nổi hàng chữ “Nơi an giấc ngàn năm của đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói năm 1945”, cạnh đó là dòng chữ ghi năm xây dựng 1951. Xung quang mộ tạo lối đi được lát gạch, ngoài cùng là bức tường bảo vệ cao 1,5m, có một cửa để ra vào khu di tích.

Khu tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói năm 1945
Khu tưởng niệm đồng bào chết vì nạn đói năm 1945

Hiện nay, khu tưởng niệm nạn đói năm 1945, đã được UBND thành phố Hà Nội ra quyết định xếp hạng số 7836/QĐ-UB ngày 18/12/2001. Hàng năm cứ vào ngày 15 tháng 7 âm lịch tại khu tưởng niệm, UBND quận Hai Bà Trưng tổ chức lễ tưởng niệm vong linh những người không may bị chết vì nạn đói năm 1945./.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *